Các nhà xuất khẩu thường mắc phải những lỗi về sở hữu trí tuệ nào ?

Các nhà xuất khẩu thường chỉ nhận ra tầm quan trọng của việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ khi họ phải đối mặt với vấn nạn sản phẩm của mình bị làm giả, làm nhái hoặc khi họ bị cáo buộc xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ của người khác.Để trước khi quá muộn, các nhà xuất khẩu cần lưu một số lỗi về sở hữu trí tuệ thường mắc phải:

Các nhà xuất khẩu thường mắc phải những lỗi về sở hữu trí tuệ nào ?
Các nhà xuất khẩu thường mắc phải những lỗi về sở hữu trí tuệ nào ?

1. Tin rằng bảo hộ sở hữu trí tuệ có tính toàn cầu

Nhiều nhà xuất khẩu tin rằng bằng cách nộp hồ sơ đăng ký bảo hộ nhãn hiệu, sáng chế hay kiểu dáng công nghiệp ở nước sở tại là họ sẽ tự động nhận được sự bảo hộ trên toàn thế giới. Nhưng, quyền sở hữu trí tuệ với đối tượng quyền sở hữu công nghiệp có tính lãnh thổ và các cơ quan sở hữu trí tuệ chỉ cấp sự bảo hộ theo pháp luật quốc gia sở tại (hay khu vực) (Điều 4bis Công ước Paris về bảo hộ sở hữu công nghiệp).

2. Cho rằng pháp luật và thủ tục bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ là giống nhau trên toàn thế giới

Tuy đã có sự hài hòa hóa đáng kể về pháp luật và thủ tục bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trên toàn thế giới, nhưng vẫn còn tồn tại khác biệt trong nhiều vấn đề ở các nước khác nhau. Ví dụ, ở Hoa kỳ bằng độc quyền sáng chế được cấp theo nguyên tắc độc quyền cho người đầu tiên tạo ra sáng chế (nghĩa là người nộp đơn có thể không được cấp bằng độc quyền sáng chế nếu có người khác chứng minh được rằng họ đã tạo ra sáng chế này trước đó), trong khi hầu hết nước khác cấp bằng độc quyền sáng chế theo nguyên tắc cấp độc quyền cho người đầu tiên nộp đơn (nghĩa là bằng độc uyền sáng chế sẽ được cấp cho người đầu tiên nộp đơn đăng ký bảo hộ sáng chế).

3. Không kiểm tra xem nhãn hiệu đã được đăng ký hay được sử dụng bởi đối thủ cạnh tranh ở thị trường xuất khẩu hay chưa

Việc sử dụng nhãn hiệu trùng hoặc tương tự với một nhãn hiệu đã đăng ký hay đang được sử dụng bởi một công ty khác ở nước khác có thể bị coi là xâm phạm các quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu của công ty đó. Doanh nghiệp có thể bị yêu cầu ngừng sử dụng nhãn hiệu đó hoặc bị yêu cầu bồi thường thiệt hại cho hành vi xâm phạm. Điều này có thể làm sụp đổ toàn bộ chiến lược xuất khẩu và tiếp thị cho doanh nghiệp. Việc tra cứu nhãn hiệu ở thị trường xuất khẩu có liên quan là một biện pháp cực kỳ cần thiết trước khi bắt đầu triển khai kế hoạch xuất khẩu của doanh nghiệp và việc tra cứu này nên được thực hiện trước khi lựa chọn nhãn hiệu.

4. Không sử dụng các hệ thống bảo hộ khu vực hoặc quốc tế

Đăng ký bảo hộ sở hữu trí tuệ ở nhiều cơ quan sở hữu trí tuệ quốc gia có thể sẽ gây ra tốn kém. Do vậy, doanh nghiệp cần ưu tiên đăng ký bảo hộ tại các hệ thống bảo hộ khu vực và quốc tế (nếu có) bởi đây là một cách thức có hiệu quả để đăng ký bảo hộ sở hữu trí tuệ tại nhiều nước khác nhau trên thế giới.

5. Nộp đơn đăng ký bảo hộ sở hữu trí tuệ ở nước ngoài quá muộn

Đối với một số quyền sở hữu trí tuệ như sáng chế hay kiểu dáng công nghiệp, doanh nghiệp nên đăng ký bảo hộ tại các nước xuất khẩu trong một thời hạn nhất định kể từ ngày nộp đơn lần đầu trong nước. Thông thường, thời hạn này được coi là “thời hạn ưu tiên” (1 năm đối với sáng chế và giải pháp hữu ích và 06 tháng đối với nhãn hiệu và kiểu dáng công nghiệp kể từ ngày nộp đơn lần đầu trong nước). Việc không nộp đơn trong thời hạn ưu tiên có thể khiến doanh nghiệp mất đi khả năng bảo hộ tại nước đó, và do đó, tạo ra lỗ hổng cho các công ty khác sao chép miễn phí sáng chế và kiểu dáng của doanh nghiệp.

Ví dụ: Doanh nghiệp A nộp hồ sơ đăng ký bảo hộ lần đầu đối với sáng chế X tại quốc gia A vào ngày 01/02/2020. Nếu doanh nghiệp A đăng ký bảo hộ tại quốc gia khác trong thời hạn được hưởng thời hạn ưu tiên 1 năm thì đơn nộp sau đó được coi như nộp cùng ngày với đơn đầu tiên.

Trong trường hợp đã hết thời hạn ưu tiên mà doanh nghiệp A muốn nộp đơn đăng ký bảo hộ tại quốc gia B, sẽ có 2 khả năng xảy ra:

Khả năng 1: không có cá nhân/tổ chức nào khác đã đăng ký bảo hộ đối với sáng chế X tại các quốc gia mà A chưa đăng ký bảo hộ thì A sẽ được xem xét công nhận bảo hộ tại quốc gia B

Khả năng 2: Có cá nhân/tổ chức khác đã đăng ký bảo hộ đối với sáng chế X tại quốc gia mà A chưa đăng ký bảo hộ mà cá nhân/tổ chức đó lại được hưởng thời hạn ưu tiên thì A sẽ không được xem xét bảo hộ công nhận tại quốc gia B đó nữa.

6. Bộc lộ thông tin quá sớm mà không có các hợp đồng/thỏa thuận bảo mật hay không bộc lộ

Bộc lộ thông tin về đổi mới sản phẩm hay kiểu dáng mới nhất của bạn với đối tác kinh doanh tiềm năng, đại lý xuất khẩu, nhà phân phối hay đối tác bất kỳ khác trước khi nộp đơn đăng ký bảo hộ mà không có hợp đồng bằng văn bản yêu cầu giữ bí mật có thể sẽ khiến doanh nghiệp mất quyền đối với sáng chế hay kiểu dáng của mình. Trên thực tế, việc đổi mới sản phẩm của doanh nghiệp sẽ không còn được coi là mới và không có khả năng được bảo hộ sáng chế nữa. Người khác có thể nộp đơn đăng ký bảo hộ sáng chế, điều đó có thể khiến doanh nghiệp không được phép sử dụng sáng chế của chính mình. Điều tương tự cũng diễn ra đối với kiểu dáng công nghiệp.

7. Xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ của người khác

Việc xuất khẩu sản phẩm mà không kiểm tra xem liệu sản phẩm đó có xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ của người khác ở thị trường nước ngoài có liên quan hay không có thể khiến doanh nghiệp tốn kém một khoản chi phí lớn. Ví dụ, nếu doanh nghiệp nhận li-xăng công nghệ từ một doanh nghiệp khác, doanh nghiệp phải chắc chắn rằng mình có quyền xuất khẩu sản phẩm chứa công nghệ đó để tránh xâm phạm các quyền của chủ sở hữu. Nếu sản phẩm của doanh nghiệp bị cho là xâm phạm theo cách đó, sản phẩm đó có thể sẽ bị bắt giữ tại cửa khẩu và việc phân phối sản phẩm sẽ bị cản trở hay ngừng hẳn, điều đó sẽ rất tốn kém, thậm chí có ý nghĩa quyết định đối với công việc kinh doanh của doanh nghiệp.

8. Không xác định vấn đề sở hữu quyền sở hữu trí tuệ khi thuê lao động

Nhiều công ty nhận dịch vụ sáng tạo, sản xuất hoặc thiết kế sản phẩm cho công ty khác, thường là các công ty ở nước ngoài. Nhưng các công ty này thường quên bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ của mình ở các nước đó hoặc quên quy định các vấn đề quyền sở hữu kiểu dáng, sáng chế, phần mềm, … trong hợp đồng với các nhà sản xuất nước ngoài. Nguy cơ chủ yếu là việc hiểu khác nhau về quyền sở hữu quyền sở hữu trí tuệ có thể sẽ nảy sinh giữa công ty giao việc và công ty ký hợp đồng nhận làm việc đó dẫn đến các tranh chấp không đáng có sau này.

9. Tìm cách li-xăng sản phẩm ở thị trường mà sáng chế và kiểu dáng có liên quan không được bảo hộ

Thay vì trực tiếp xuất khẩu sản phẩm, nhiều công ty cấp li-xăng cho các công ty khác để lấy một khoản phí trọn gói hoặc tiền phí li-xăng. Hợp đồng li-xăng thường có các quy định liên quan đến việc chia sẻ bí quyết công nghệ, cũng như cho phép sản xuất và/hoặc bán sản phẩm do bên cấp li-xăng phát triển. Điều quan trọng là phải bảo đảm rằng các quyền sở hữu trí tuệ có liên quan đến sản phẩm sẽ được li-xăng phải được bảo hộ đầy đủ ở nước có liên quan dù hợp đồng li-xăng có được thương lượng ở đâu và hợp đồng phải có các điều khoản phù hợp xác định rõ vấn đề sở hữu đối với các quyền sở hữu trí tuệ đó.

10. Sử dụng nhãn hiệu không phù hợp với thị trường có liên quan

Có rất nhiều ví dụ về các công ty chỉ khi bắt đầu tiếp thị sản phẩm hoặc dịch vụ ở thị trường nước ngoài mới nhận ra rằng nhãn hiệu của họ không phù hợp với thị trường đó vì (a) nhãn hiệu có ý nghĩa tiêu cực hoặc không hay theo ngôn ngữ hoặc văn hóa địa phương hoặc (b) nhãn hiệu không thể đăng ký ở cơ quan sở hữu trí tuệ quốc gia dựa trên cơ sở tuyệt đối.

Do vậy, khi doanh nghiệp muốn xâm nhập vào một thị trường xuất khẩu bất kỳ cần chú ý lựa chọn nhãn hiệu phù hợp với thị trường đó.

Thư Viện Pháp Luật.

5/5 - (1 bình chọn)